Thư viện ảnh
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập161
  • Hôm nay58,858
  • Tháng hiện tại825,456
  • Tổng lượt truy cập17,764,557

CÁC GIAI ĐOẠN PHỤC HỒI BRUNNSTROM SAU ĐỘT QUỴ - LÝ THUYẾT VÀ ỨNG DỤNG CAN THIỆP LÂM SÀNG

Thứ hai - 01/04/2024 23:08 2.702 0
CÁC GIAI ĐOẠN PHỤC HỒI  BRUNNSTROM SAU ĐỘT QUỴ - LÝ THUYẾT VÀ ỨNG DỤNG CAN THIỆP LÂM SÀNG
         Đột quỵ não (tai biến mạch máu não) là một căn bệnh đe dọa tính mạng, có thể dẫn đến một loạt các biến chứng đối với khả năng vận động, cảm giác, phối hợp động tác, rối loạn ngôn ngữ, nhận thức… của người bệnh. Nếu đột quỵ được phát hiện và điều trị sớm, người bị đột quỵ có thể tránh được các di chứng và có tỷ lệ phục hồi tốt hơn nhiều. Tuy nhiên, quá trình phục hồi sau đột quỵ có thể là một hành trình gập ghềnh, lâu dài đòi hỏi sự tham gia của nhiều yếu tố như quyết tâm của người bệnh, sự hỗ trợ của người nhà, chất lượng của các dịch vụ y tế (thuốc, kỹ thuật chẩn đoán và hỗ trợ và đặc biệt là các kỹ thuật phục hồi chức năng). Tùy thuộc vào các yếu tố như mức độ nghiêm trọng của đột quỵ, quá trình hồi phục ở mỗi người bệnh là khác nhau.
          Phương pháp phân loại các giai đoạn đột quỵ Brunnstrom là gì?
         Vào những năm 1960, Signe Brunnström, một nhà trị liệu vật lý nổi tiếng, đã công bố những phát hiện của mình về sự phục hồi vận động ở những người đang hồi phục sau chứng liệt nửa người (một tình trạng bệnh lý dẫn đến liệt một bên cơ thể, do đột quỵ hoặc chấn thương não khác). Bà lưu ý rằng bất kể mức độ nghiêm trọng của nỗi đau của họ, quá trình phục hồi diễn ra theo trình tự các giai đoạn tuyến tính, “gần như được tiêu chuẩn hóa”. Sự khác biệt chính bắt nguồn từ thời gian mỗi giai đoạn diễn ra đối với mỗi người bệnh và khu vực nào bị ảnh hưởng. Mỗi người bệnh có thể đang ở các giai đoạn phục hồi khác nhau trong từng lĩnh vực này.
          Mô hình phục hồi đột quỵ này được gọi là giai đoạn Brunnstrom, trong đó có tổng cộng bảy giai đoạn.
  • Giai đoạn 1: Mềm nhũn
  • Giai đoạn 2: Co cứng
  • Giai đoạn 3: Tăng độ co cứng
  • Giai đoạn 4: Giảm độ co cứng
  • Giai đoạn 5: Kết hợp chuyển động phức tạp
  • Giai đoạn 6: Co cứng biến mất
  • Giai đoạn 7: Trả về hàm bình thường
        Những giai đoạn này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay để đánh giá quá trình phục hồi về thể chất sau đột quỵ. Điều này giúp chúng ta có thể điều trị và phục hồi chức năng một cách có hiệu quả dựa trên giai đoạn hiện tại của người bệnh sống sót sau cơn đột quỵ, nhưng chỉ dựa trên khía cạnh thể chất. Các giai đoạn này tất nhiên không bao gồm lời nói, thị giác, nhận thức hoặc các lĩnh vực khác bị ảnh hưởng bởi đột quỵ.
         Giai đoạn 1: Mềm nhũn (liệt mềm)
        Giai đoạn đầu tiên xảy ra ngay sau đột quỵ. Trong giai đoạn này, các cơ sẽ có cảm giác yếu, mềm nhũn và “mềm”. Đây là lúc tình trạng tê liệt bắt đầu xuất hiện, cho thấy người bệnh không có khả năng thực hiện bất kỳ cử động chủ động tương ứng với bên liệt. Tổn thương thần kinh do đột quỵ khiến cơ không nhận được tín hiệu chính xác từ não, ngay cả khi não vẫn có thể điều phối bất kỳ cử động nào của cơ. Tùy theo bên não nào bị ảnh hưởng mà bên đối diện của cơ thể sẽ bị liệt. Ví dụ, nếu tổn thương xảy ra ở bên trái não, điều này sẽ dẫn đến liệt nửa người bên phải.
       Mối nguy hiểm chính của tình trạng mềm nhũn là người thân của bạn không thể cử động bất kỳ chi nào bị ảnh hưởng. Tình trạng liệt mềm lâu dài có thể dẫn đến suy yếu khối lượng và sức mạnh cơ bắp, điều này có thể làm tổn hại thêm đến quá trình phục hồi. Để duy trì sức mạnh của cơ, có thể thực hiện các bài tập vận động thụ động (do kỹ thuật viên phục hồi chức năng hoặc người nhà hoặc chính bệnh nhân được hướng dẫn thực hiện) sẽ giúp người bệnh tập luyện tay chân, giúp não từ từ khôi phục các kết nối thần kinh đến các khu vực bị ảnh hưởng (được gọi là tính mềm dẻo của hệ thần kinh).
        Các phương pháp khác bao gồm đặt tư thế đúng, lăn trở để ngăn ngừa lở loét khi nằm, đau khớp hoặc các vấn đề khác phát sinh do nằm liệt giường và thậm chí cả hỗ trợ thể chất được hướng dẫn khi thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày (ADL).
         Giai đoạn 2: Co cứng
         Ở giai đoạn này, tình trạng co cứng (tăng trương lực hoặc cứng cơ) bắt đầu xuất hiện. Trong giai đoạn này, não của người bệnh đã dần dần xây dựng lại một số kết nối bị mất đến các khu vực bị ảnh hưởng và điều này cho thấy các cơ đang được kích thích trở lại. Tuy nhiên, những kết nối này chỉ là một phần hoặc không đầy đủ, khiến cơ bị “kẹt” ở các vị trí cố định hoặc co rút, co thắt theo phản xạ hoặc không phản ứng với các chuyển động có chủ ý. Thỉnh thoảng co thắt cơ hoặc run cũng có thể xảy ra trong thời gian này.
       Co cứng thường là một dấu hiệu tốt, vì điều này có nghĩa là sự phối hợp của các cơ đang dần trở lại. Tuy nhiên, sẽ gặp khó khăn trong việc di chuyển các chi bị ảnh hưởng do tình trạng co cứng này, vì không phải tất cả các kết nối với các cơ liên kết khác đều có thể được chữa lành đầy đủ. Những điều này cản trở khả năng người thân của bạn thực hiện một số cử động nhất định với các chi thể bị ảnh hưởng.
       Các bài tập vận động thụ động vẫn quan trọng trong việc giữ cho cơ bắp khỏe mạnh, nhưng các bài tập vận động chủ động cũng có thể được thực hiện từ từ. Bất kỳ vận động nhỏ nào cũng tốt để thúc đẩy quá trình chữa lành các chức năng cơ bắp và thần kinh ở những vùng bị ảnh hưởng.
        Sự kết hợp giữa các bài tập chủ động và thụ động là một cách tốt để thúc đẩy quá trình phục hồi. Người bệnh sẽ cần kích hoạt cơ bắp của họ nhiều nhất có thể, sau đó là sử dụng bàn tay không bị ảnh hưởng của họ để di chuyển khớp trong toàn bộ phạm vi chuyển động. Hãy đảm bảo thực hiện việc này dần dần, vì quá trình gấp rút có thể khiến tình trạng của người bệnh trở nên tồi tệ hơn.
        Giai đoạn 3: Tăng độ co cứng
      Ở giai đoạn 3, độ co cứng tăng lên và đạt đến đỉnh điểm. Tại thời điểm này, một số cơ nhất định thậm chí có thể căng hơn trước và khó thư giãn hơn. Co cứng thậm chí có thể gây ra sự gia tăng bất thường về độ cứng và trương lực cơ, điều này có thể ảnh hưởng xấu đến lời nói và khả năng vận động, hoặc thậm chí có thể gây ra nhiều khó chịu hoặc đau đớn cho người thân của bạn. Cũng có thể có sự gia tăng các cử động không chủ ý, xuất phát từ khả năng cử động của các cơ bị ảnh hưởng nhưng không kiểm soát được nó một cách hiệu quả.
       Ở giai đoạn 3 này, người bệnh có thể cảm thấy rất bực bội vì những trở ngại và cảm giác khó chịu mà người thân của bạn sẽ phải trải qua. Tuy nhiên, đây vẫn là một dấu hiệu tốt của sự tiến bộ, vì não của đã tạo ra nhiều kết nối hơn với các vùng bị ảnh hưởng. Các bài tập vận động thụ động và chủ động vẫn sẽ cần thiết, tập trung vào việc cải thiện khả năng vận động tích cực của người bệnh nhiều nhất có thể.
       Chuyên gia trị liệu cũng có thể khuyến khích sự phối hợp của các cơ cụ thể để hoạt động có lợi cho người bệnh. Việc kết hợp các bài tập vào các hoạt động sinh hoạt hàng ngày cơ bản có thể có lợi trong việc khuyến khích sự tiến bộ của họ, nhưng vẫn phải thận trọng để người bệnh không bị căng thẳng quá mức. Nếu cần thiết, có thể tiêm Botulinum Toxin A để giúp giảm co cứng, nhưng điều này không thể thay thế cho việc tập luyện thường xuyên.
       Gương trị liệu cũng có thể được xem xét để giúp cải thiện khả năng phục hồi. Liệu pháp gương bao gồm việc đặt một chiếc gương giữa chi bị ảnh hưởng và chi không bị ảnh hưởng tương ứng (ví dụ: một tấm gương giữa cánh tay trái và tay phải). Điều này tạo ra ảo giác thị giác về chi bị ảnh hưởng. Khi thực hiện các hành động bằng cách sử dụng chi không bị ảnh hưởng, nó giúp đánh lừa não nghĩ rằng chi bị ảnh hưởng đang hoạt động tốt, điều này có thể dẫn đến kết quả phục hồi tích cực.
        Giai đoạn 4: Giảm độ co cứng
       Đến giai đoạn này có thể thấy tình trạng co cứng ở người bệnh giảm đi. Họ sẽ lấy lại được khả năng kiểm soát cơ bắp nhiều hơn và khả năng di chuyển hạn chế như bình thường. Họ vẫn có sự phối hợp kém trong chuyển động, với một số cử động giật, cứng và/hoặc không đồng bộ, nhưng đây vẫn là một cột mốc quan trọng cần đạt được.
        Tại thời điểm này, các bài tập vận động tích cực và được hỗ trợ tích cực, cùng với các bài tập tăng cường sức mạnh cơ để xây dựng lại khối lượng cơ và giúp phục hồi chức năng cơ và kiểm soát vận động. Việc lặp lại với tốc độ nhất định sẽ giúp đẩy nhanh quá trình phục hồi rất nhiều, nhưng hãy nhớ đừng vội vàng. Hãy chắc chắn rằng người bệnh cũng thực hiện các động tác giãn cơ thường xuyên để cải thiện tính linh hoạt.
        Tại thời điểm này, bắt đầu tập trung vào việc đào tạo lại khả năng phối hợp vận động và các kiểu chuyển động chức năng của người bệnh. Điều này bao gồm dạy cách ăn, mặc quần áo, giày dép, cách giữ vệ sinh, v.v. Hãy nhớ hỗ trợ người bệnh trong suốt quá trình, vì tình trạng co cứng kéo dài vẫn sẽ cản trở người bệnh có thể tự làm mọi việc.
        Giai đoạn 5: Kết hợp chuyển động phức tạp
        Giai đoạn 5 chứng kiến ​​tình trạng co cứng giảm hơn nữa, não của người bệnh thành công hơn trong việc hình thành các kết nối với các cơ bị ảnh hưởng. Điều này cho phép người bệnh thực hiện nhiều hoạt động chủ động hơn và quan trọng hơn là cho phép những chuyển động này phức tạp hơn nhiều. Các cử động bất thường hoặc co giật giảm đáng kể nhưng vẫn có thể xảy ra không thường xuyên.
        Ở giai đoạn này, người bệnh có thể thực hiện các hành động như chải tóc, cầm đồ vật và cầm đồ dùng sinh hoạt, tất cả đều không gặp nhiều khó khăn. Duy trì các bài tập thường xuyên, tăng cường sức mạnh cơ bắp và rèn luyện lại các kỹ năng vận động sẽ giúp người bệnh lấy lại sự tự lập. Người bệnh luôn cần được tiếp tục khuyến khích họ khi họ tiến bộ.
        Giai đoạn 6: Co cứng biến mất
        Khả năng điều khiển vận động của người bệnh sẽ gần như trở lại bình thường ở giai đoạn này. Tình trạng co cứng gần như đã biến mất hoàn toàn. Các đông tác vận động phối hợp cũng mang lại sự cải thiện đáng kể và các khớp riêng lẻ ở bên bị ảnh hưởng giờ đây có thể di chuyển tự do mà không gặp bất kỳ khó chịu hay đau đớn nào.
Nếu người thân của bạn duy trì thói quen tập luyện và tập luyện tích cực, họ sẽ có thể tự chăm sóc bản thân mà không cần sự trợ giúp. Đây là một dấu hiệu tuyệt tốt để thực hiện ADL một cách hiệu quả như trước đây.
        Giai đoạn 7: Trả về hàm bình thường
       Giai đoạn cuối cùng là khi người bệnh lấy lại được các chức năng bình thường. Người bệnh có thể thực hiện các động tác vận động chủ động mà không gặp khó khăn và có thể thực hiện ADL một cách độc lập mà không cần bất kỳ sự trợ giúp nào.
        Đây là mục tiêu cuối cùng của tất cả những người sống sót sau đột quỵ đang hồi phục, nhưng không phải ai cũng đạt được giai đoạn này. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hướng tới mục tiêu này với sự trợ giúp của các thiết bị hỗ trợ, phương pháp trị liệu và lựa chọn điều trị mới đang được cung cấp.
         Tự phục hồi
        Có thể có những trường hợp xảy ra sự phục hồi tự phát. Điều này có thể có nghĩa là sự tiến triển nhanh chóng, tích cực từ giai đoạn này sang giai đoạn khác (bao gồm cả việc bỏ qua một hoặc hai giai đoạn bổ sung) hoặc đối với những người may mắn hơn, dẫn đến sự hồi phục hoàn toàn trong thời gian ngắn.
        Sự phục hồi tự nhiên có nhiều khả năng xảy ra nhất trong ba đến sáu tháng đầu sau đột quỵ, tại thời điểm mà liệu pháp điều trị chuyên sâu có thể giúp thúc đẩy quá trình phục hồi đáng kể. Cơ thể đang bận sửa chữa những tổn thương do đột quỵ gây ra và sẽ cần phải xây dựng lại các kết nối thần kinh bị mất đã bị phá hủy do đột quỵ – cái được gọi là tính mềm dẻo của thần kinh. Ở giai đoạn đầu của quá trình hồi phục, tính mềm dẻo cuả hệ thần kinh có thể diễn ra nhanh chóng hoặc được thúc đẩy mạnh mẽ nhờ các biện pháp can thiệp trị liệu hoặc các yếu tố khác. Điều này xảy ra càng nhanh thì quá trình phục hồi của người bệnh càng tiến triển nhanh hơn.
Mặc dù vậy, sự phục hồi tự phát không chỉ xảy ra với bất kỳ ai. Nhiều yếu tố khác nhau có thể cản trở kết quả phục hồi sau đột quỵ của người thân của bạn, bao gồm (nhưng không giới hạn):
  • Mức độ nghiêm trọng của đột quỵ
  • Mức độ tổn thương não
  • Quá trình phục hồi chức năng bắt đầu sau đột quỵ
  • Cường độ và tần suất điều trị
  • Độ tuổi xảy ra đột quỵ
  • Tình trạng các năng lực nhận thức
  • Liệu đây có phải là một cơn đột quỵ tái phát
        Do vậy, bên cạnh mục tiêu phục hồi chức năng tối đa sau đột quỵ, một mục tiêu khác rất quan trọng là phòng ngừa đột quỵ tái phát. Muốn vậy, người bệnh cần duy trì uống thuốc, chế độ ăn, chế độ tập luyện và tuân thủ lịch khám lại đã được thống nhất trước đó.

Tác giả bài viết: ThS.BSCKII. Lê Huy Cường

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây